Tham quan thành phố Huế nhiều lần nhưng có lẻ chúng ta chưa biết rõ về thánh đưởng Dòng Chúa Cứu Thế, Huế. Thầy Giuse Trần Văn Duy, Lớp thần học I, niện khóa 2010-2011, Đại chủng viện Huế, sẽ tổng hợp thông tin giúp đở chúng ta. Xin chân thành cám ơn.
SÀI GÒN 13/5/2011.
Lm An tôn Nguyễn Trường Thăng.
NHÀ THỜ DÒNG CHÚA CỨU THẾ, HUẾ
Theo đường quốc lộ 1A từ Nam ra miền Trung, ngay khi vừa vào trung tâm thành phố, nếu rẻ trái vào đường Nguyễn Huệ (Đường Nguyễn Huệ nối liền với tòa Tổng Giám Mục Huế và nhà thờ Chánh Tòa Phủ Cam), cũng trục đường thẳng lên Ga Huế, chỉ chừng 300 m, bạn sẽ thấy Cung An Định (nơi nghỉ dưỡng của Vua Khải Định) phía bên tay trái, và trước mắt bạn ngôi giáo đường Mẹ Hằng Cứu Giúp Huế. Đón bạn là tượng Trái Tim Chúa Giêsu khá lớn, đang dang rộng đôi tay như muốn ôm trọn muôn người. Bức tượng Trái Tim đứng ngay ngã ba, giao nhau giữa đường Nguyễn Huệ và Nguyễn Khuyến (chạy dọc hai bên nhà thờ) với những hàng phượng vĩ đan xen lẫn nhau. Hai hàng cây lâu năm này trước đây nằm trong khuôn viên nhà thờ. Sau bao lần mở đường, nay nó nằm trên vỉa hè lát đá của hai con đường này. Ngôi thánh đường này hằng năm được đón tiếp rất nhiều khách hành hương từ mọi miền đất nước hành hương về Đất Mẹ La Vang, ghé thăm nhà Dòng, ở lại và tham quan thành xưa Huế cổ. Riêng ngôi thánh đường này đã là một điểm đáng tham quan.
Nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế hay Nhà thờ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp là một công trình công giáo đồ sộ, có giá trị kiến trúc cao tại thành phố Huế. Một ngôi thánh đường đẹp lộng lẫy theo đúng nghĩa của phẩm từ này.
Đôi Nét Lịch Sử: Ngày 14 tháng 10 năm 1925, theo lời mời gọi của Toà Thánh, ba vị thừa sai tiên khởi từ Canada lên đường lập Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam, đó là cha Hubert Cousineau (1890-1964), cha Eugène Larouche (1892-1978) và thầy Barnabé St-Pierre (1883-1961). Ngày 30 tháng 11 năm 1925, khi đến Huế, Giám mục Eugène Marie Allys đã tiếp đón và mời cư trú tại Nhà Chung.
Các vị thừa sai đã chọn ngày ngày Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội (8 tháng 12) năm 1925, là ngày khai sinh cộng đoàn Tu Viện Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp tại Huế.
Ngày 13 tháng 9 năm 1927, Cộng Đoàn mua một đám đất – chỗ hiện nay là địa điểm của Tu Viện – và ngày 18 tháng 3 năm 1928, khởi công xây Tu Viện. Ngày 8 tháng 1 năm 1929, lễ khánh thành Tu Viện được tổ chức và đến ngày 13 tháng 3 năm 1929, Toà Thánh ký văn kiện cho phép thành lập Tu Viện Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp tại Huế. Ngày 25 tháng 3 năm 1929- là ngày Lễ Truyền Tin cho Đức Mẹ- cộng đoàn Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp Huế tuyên bố chính thức thành lập.
Song song với việc xây cất cơ sở, các hoạt động tông đồ vẫn được thực hiện. Từ năm 1929, các cha đã bắt đầu tổ chức hành hương kính Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, cha Patrice Gagné đã bắt đầu tổ chức diễn thuyết cho lương dân. Ngày 13 tháng 1 năm 1933, một nguyện đường được khởi công xây dựng và được sử dụng cho đến năm 1962. Để đáp ứng nhu cầu mục vụ, hiện nay (03.2011), tòa nhà cũ nối liền nhà nguyện đã nhường chổ cho một “Nhà Mục Vụ Giáo Xứ” đang được xây dựng ngay vị trí này.
Ngày 5 tháng 6 năm 1954 Giáo Xứ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp ra đời trên cơ sở một bản hợp đồng ký kết giữa Giáo phận Huế và Cộng đoàn Dòng Chúa Cứu Thế Huế. Sau đó, Nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế được khởi công vào tháng 1 năm 1959 và khánh thành vào tháng 8 năm 1962 theo thiết kế của kiến trúc sư Nguyễn Mỹ Lộc. Ngày 12 tháng 8 năm 1962, giám mục Ngô Đình Thục đã hiến thánh nhà thờ và bàn thờ.
Một số hình ảnh về ngôi thánh đường này “từ những ngày xưa ấy…”
Đang trong quá trình xây dựng (ba tháp lầu chuông). 1961.
Nhà Thờ sau mùa Xuân 1968 vẫn còn hầu như nguyên vẹn.
Trước nguy cơ của sự tàn phá (chiến tranh). Giáo Đường là hình ảnh của Giáo Hội (!)
Về kiến trúc
Kiến trức sư Nguyễn Mỹ Lộc thuộc nhóm các kiến trúc sư danh tiếng đương thời: KTS Ngô Viết Thụ, KTS Nguyễn Mỹ Lộc, KTS Phạm Quỳnh Lân, KTS Vũ Tòng… KTS Ngô Viết Thụ và nhóm các KTS phụ tá, trong đó có KTS Nguyễn Mỹ Lộc, đã đảm nhận nhiều công trình rất giá trị cho Đà lạt như: Xí nghiệp Bản đồ Đà Lạt, Chi cục thuế, Trụ sở Uỷ ban nhân dân tỉnh Lâm Đồng, Nhà ga xe lửa Đà Lạt, Phân viện sinh học, Nhà Thủy Tạ, Viện nghiên cứu hạt nhân, Chợ Đà Lạt… và không riêng gì Đà lạt mà còn rất nhiều công trình đồ sộ khác từ Nam ra Bắc.
Kiến trúc sư Nguyễn Mỹ Lộc học dở dang Trường cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, tốt nghiệp kiến trúc sư ở Pháp, văn bằng kiến trúc sư DPLG Paris. Về nước ông thiết kế một số công trình được giới kiến trúc ở Sài Gòn và Huế đánh giá cao, đậm đà bản sắc dân tộc, ảnh hưởng phong cách kiến trúc Đông Dương. Tác phẩm nổi tiếng được dư luận khen ngợi nhất có lẽ chính là ngôi thánh đường Đức Mẹ hằng cứu giúp này. Vào thời điểm đó mới có nhà thờ Phát Diệm, Ninh Bình do Cha Sáu (Cụ Lục) thiết kế xây dựng; nhà thờ Vĩnh Trị, Nam Định do Cha Phaolô Cẩm thiết kế; nhà thờ Cửa Bắc do kiến trúc sư Ernes Hébrad thiết kế là những công trình theo xu hướng tìm tòi, khai thác kiến trúc dân tộc Việt Nam, còn hầu hết các nhà thờ Thiên Chúa giáo khác đều du nhập phong cách kiến trúc châu âu như Gothique, Romanesque…
Nhà thờ Đức Mẹ hằng cứu giúp ở Huế có mặt bằng đối xứng qua trục trung tâm. Bố cục mặt bằng có nhiều đổi mới: Không gian hành lễ và cung thánh ở mặt trước, giữa có cánh phụ trồi ra hai bên và nổi bật ở giữa một tháp chuông cao vút, phòng thánh (phòng áo) ở phía sau, bao quanh hình cánh cung. Hình thức kiến trúc mái sảnh vào chính, mái lớn gian hành lễ, mái nhỏ hai bên cánh và trên các lớp tường giật cấp, mái xoè rộng trên các tầng tháp đều mang đường nét kiến trúc truyền thống ViệtNam.
Về Xây Dựng
Tu sĩ Dominico Bùi Văn Khắc là người thực hiện trực tiếp việc xây dựng nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế Huế với 150 tay thợ lành nghề. Triển khai kết cấu do Nhà Địa chính Huế lúc bấy giờ giúp, nhưng việc thi công do chính ông đảm đương. Khi còn là tu sĩ trong Dòng Chúa Cứu Thế, ông Bùi Văn Khắc đã cống hiến đời mình cho nhiều công trình xây dựng lớn bé của Nhà Dòng từ Huế trở vào Sài Gòn. Khi đã rời khỏi Nhà Dòng ông vẫn còn thao thức với công việc chung, nên đã trở lại tiếp tục xây dựng các công trình khác cho Nhà Dòng.
Dominico Bùi văn Khắc
sinh năm 1925, tại Nam Định
Nhập Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam năm : 1945
Ông vào nhà tập năm : 1946 tại : Hà Nội
Khấn Dòng năm : 1947
Tên dòng quen gọi là thầy Henry
Sau nhiều năm phục vụ trong Dòng, ông hồi tục năm 1976, Trú ngụ tại 130 Bùi Hữu Nghĩa Gia Định.
Ông được biết là một người có nhiều tài năng, đặc biệt trong lãnh vực xây dựng và cơ khí, tuy không theo học bất cứ một khóa học về kỹ thuật nào, không tốt nghiệp từ bất kỳ một trường đào tạo nào, nhưng ông có khả năng tuyệt vời khi đảm nhận nhiều công tác kỹ thuật trong nhiều lãnh vực khác nhau.
Nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế Huế là một công trình khó, thi công trên một vùng đất sình lầy, hoàn cảnh kỹ thuật lúc đó còn thô sơ, thiết kế phức tạp về kết cấu và kiến trúc. Với tất cả lòng nhiệt thành và đầy sáng kiến, ông Bùi văn Khắc đã chỉ huy thi công trong một thời gian nhanh nhất, phối hợp nhiều nhà thầu nhiều lãnh vực, đặc biệt với nhà thầu Eiffel thi công tháp chuông rất đồ sộ, nhà thầu Nhật thi công lắp đặt chuông theo một bài nhạc nổi tiếng Kìa Bà Nào của cố linh mục nhạc sĩ Hoàng Diệp CSsR. Người ta thấy ông chế tạo máy đóng cừ từ giàn máy khoan đất, đưa nhanh tốc độ xử lý cừ trên nền đất không chân.
Hoàn thành Nhà thờ Chúa Cứu Thế Huế, một tác phẩm nghệ thuật hiện đại mang đậm đường nét Á Đông, ngay cửa ngõ thành phố Huế hướng từ miền nam ra, ông vâng lời Bề trên di chuyển vào Sài Gòn. Tại Sài Gòn, năm 1965 ông xây dựng trường Trung học Cứu Thế, trước năm 75 quen gọi là Cứu Thế Học Đường. Năm 75, chính quyền mới tịch thu đổi tên là trường Trung học Cơ sở Kỳ Đồng. Hoàn thành Trường Cứu Thế Sài Gòn, năm 1966 ông ra Nha Trang…
(trích từ -“Sài Gòn – Một người anh em vừa ra đi” của Lm Nguyễn Minh Sang CSsR)
Nhà Thờ, Nhà Dòng và Nhà Nguyện.
Bên kia đường Nguyễn Huệ là Nhà Sách “Gió Lành” Và “L’ Accueill” . Cả hai đã bị tịch thu sau 1975.
“Tượng Thánh Tâm dang rộng đôi tay như muốn ôm choàng mọi con dân Đất Việt
Kiến trúc Thánh Đường
Hiện nay, nhà thờ thuộc phường Phú Nhuận, thành phố Huế. Khuôn viên nhà thờ rộng và có hình tam giác, đỉnh là giao của ngã ba đường Nguyễn Huệ và Nguyễn Khuyến. Phía trước có tượng Chúa, phía sau, bên trái là hang Đức Mẹ. Mặt bằng kiến trúc chính sâu 70m, bề ngang từ 15-37m. Vật liệu chính xây nhà thờ là Bê tông và đá xanh, mái lợp ngói đất nung.
Mái nhà thờ cao 32m, chính giữa nhà thờ là tháp chuông (điều khiển bằng điện) gồm ba tầng và một chóp có độ cao 53m. Đỉnh chóp nhọn vươn thẳng kết hợp với phần thân lợp ngói có mái, kiến trúc của nhà thờ là sự tổng hòa kiến trúc đông – tây. Một tổng thể vừa đồ sộ, vừa thanh tao, vừa góc cạnh, mềm mại trong chi tiết, đơn giản trong các hoa văn. Ngay tầng tháp thứ nhất, bên cạnh chiếc thang sắt, có một cánh cửa kính để thông gió cho bên trong gian chính. Lúc trước vẫn thường mở, sau này đóng lại vì những chú chim (nhất là chim én) vẫn thường vào nhà thờ qua cửa này.
“Mái nguyện đường, thánh ca chim hát
Dưới hiên dài, cánh gió nghe kinh”
Hành lang hai bên dài 26m, rộng 4,2m. Thông với lòng nhà thờ qua 7 cánh cửa gỗ lớn khiến ta có cảm giác nhà thờ không có vách. Trên mỗi cửa là mỗi chặng Đàng Thánh Giá rất đẹp, nối dài lên tận vòm mái bằng một khung kính nhiều màu sắc làm cho nhà thờ luôn tràn ngập ánh sáng
Cung Thánh sâu 8,5m, bàn thờ chính giữa làm từ đá cẩm thạch được khai thác từ Ngũ Hành Sơn với kích thước 3,6 x 1,25 x 0,3m. Cạnh đó có 2 bàn thờ nhỏ cũng làm bằng loại đá quý này.
Kiến trúc đặc biệt của nhà thờ là cửa rộng và không có vách. Phần hiên của thánh đường được thiết kế rất rộng, khi đông người dự lễ có thể mở rộng cửa, vì thế người ở ngoài hiên vẫn có cảm giác như đang trong thánh đường.
Phía trên hoàn toàn là những khung gương kéo lên tận vòm mái với nhiều màu sắc khác nhau, tách khỏi chặng Đàng Thánh Giá bên dưới bằng một hình thánh Giá cách điệu, thông với phần mái bên ngoài. Có mười hai hình Thánh Giá được chạm trên mười hai tấm cẩm thạch rất đẹp, gắn trên mười hai cột trụ (mười trụ dưới gian chính và hai trụ đầu của gian Cung Thánh), tượng trưng cho mười hai thánh Tông Đồ. Dưới mỗi thánh giá có một đèn chầu.
Bước vào thánh đường, ta có cảm giác ở đây không có cột, không có vách, không hệ thống điện… bên trong luôn có đủ ánh sáng tự nhiên. Nội thất nhà thờ rộng 38m, dài 72m luôn được chiếu sáng bởi hệ thống những tấm kính màu cỡ lớn trên các mảng tường.
Phần hiên của thánh đường được thiết kế rất rộng, khi đông người dự lễ có thể mở rộng cửa. Vì thế người ở ngoài hiên vẫn có cảm giác như đang trong thánh đường.
Giờ hành lễ của nhà thờ Nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế, Huế:
- Chủ nhật: 5h30; 8h và 16h30
- Thứ bảy: 5h15 và 14h30 (việc kính Đức Mẹ và Thánh Lễ)
- Ngày còn lại: 5h15 và 17h30
Một cửa bên nhà thờ, phía ngoài. Trước đây không có cửa sắt này, vì nhiều lí do, Cố linh mục Micae Nguyễn Đình Lành đã cho lắp thêm phần cửa này.
“Những cánh cửa lớn đem lại cảm giác giáo đường không có vách”.
Những mái ngói xô lệch rất Á Đông, những đường cong mái kết hợp những bậc cấp hết sức hợp lí và hài hòa. Ô thông gió cùng những họa tiết đơn giản nhằm phá vỡ những mảng tường lớn đem lại sự nhẹ nhàng và duyên dáng cho toàn bộ công trình. Những cuốn góc giả ở các bậc nhảy phản phất hình ảnh các mái đình làng quê ViệtNam
Nhìn từ tầng tháp thứ nhất về phía Tiền Đường, con lương đỉnh mái dài chừng 50m, rộng 30dm, những người “gan lớn” vẫn đi theo con lương này để bắt đèn điện vào các dịp lễ…
Hệ thống mái tầng tầng lớp lớp với độ xuôi rất lớn. Mặt hai bên có cấu trúc tương đồng với Tiền Đường, ở mỗi mặt phía trên cao đều có một tượng thánh khá lớn. Toàn công trình rất đồng bộ.
“Hình thức kiến trúc mái sảnh vào chính, mái lớn gian hành lễ, mái nhỏ hai bên cánh và trên các lớp tường giật cấp, mái xoè rộng trên các tầng tháp đều mang đường nét kiến trúc truyền thống Việt Nam”.
Kết cấu sắt cho ba tầng tháp do công ty Eiffel (Pháp) lãnh thầu.
Tháp chuông nhà thờ cách mặt đất 30m, phía trong ba tầng tháp, là nơi treo 4 quả chuông lớn, trên mỗi chuông đều có những họa tiết nổi rất đẹp, thánh giá và Thánh Trinh Nữ…
Bốn quả chuông nặng 1.5 tấn.
Nhà Tạm được ghép từ hai tám đá Cẩm Thạch mài hình vòng cung áp lấy nhau, hai lá cửa bằng đồng. Hai mặt phía trước và sau đều giống nhau.
NHÌN TỪ TRÊN CAO:
Nhìn lên phía nhà thờ Phủ Cam, ta có thể thấy cầu Lò Rèn và sông An Cựu.An Cựu khuất sau hàng cây.
Nhà Nguyện cũ. “Ngày 18 tháng 3năm 1928, khởi công xây Tu Viện và Nhà Nguyện”
Bàn Thờ Phụ (Phía Nữ). Ảnh Mẹ Hằng cứu Giúp và bức phù điêu con thuyền vượt sóng bằng đá cẩm thạch.
Một ngày chầu Mình Thánh Chúa(Thứ Năm hàng Tuần).
Chiêng và Trống mang đậm tính phụng tự Á Đông.
Mặt trước của Bàn Thờ:
Bức phù điêu “Bữa Tiệc Ly” trên đá cẩm thạch, theo mẫu của Leonard Da Vinci.
Hai bức trang trí phía trên hai bàn thờ phụ, bàn thờ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp và Thánh Tâm.
Hai trong số 14 bức phù điêu lớn của Chặng Đàng Thánh Giá, mỗi bức rộng 1.8m x 1.4 m, với nhiều nhân vật chạm nổi rất đẹp
Cung Thánh Mùa Noell.
Những đồ vật thờ tự do hoàng hậu Nam Phương tặng cho nhà Dòng. Ba cặp Đôn, Bàn, Giá, nhiều đồ sành sứ… những đường nét chạm trổ tinh vi, khảm sà cừ rất tinh xảo. Hình tượng Lân, Long, Phụng, Hạt; Mai, Lan, Cúc, Trúc… thể hiện tài hoa một thời của những tay thợ đất Thần Kinh.
Những cành mai mềm mại vây lấy bốn chân của giá gỗ từ trên xuống dưới. Hai giá gỗ giống nhau cao 1m50, đường kính 50 dm, bốn mặt đều giống nhau.
Hai giá sơn màu vàng thấp hơn, cao 80 dm, đường kính 50 cm
Trước giờ quay cảnh chính trong “Giải Khăn Sô Cho Huế” tại Nhà Thờ Dòng Chúa Cứu Thế: Từ trái, Trịnh Công Sơn ngồi trước Vân Quỳnh, Bích Hợp; Hà Thúc Cần (đội mũ), phía sau là Xuân Hà và Lưu Nguyễn Đạt. Người đứng: nhạc sĩ Lê Thương trong vai Linh mục Phục; đứng kế là Kim Cương, vai bà mẹ điên hát ru xác con.
Tài liệu tham khảo
1. Nguồn ảnh của người viết (trừ một số ít tìm trên Net)
2.“Sài Gòn – Một người anh em vừa ra đi”, Lm Nguyễn Minh Sang CSsR
4. Nhà Thờ Đức Mẹ Hằng Chúa Cứu Thế, Từ điển lịch sử Thừa Thiên Huế, NXB Thuận Hóa, 2000, tr 583.
6. “Ngậm Ngùi Huế Mậu Thân Kỷ Niệm Với Đất Khổ” Nguyễn Xuân Nghĩa .
7. “Trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương”
Giuse Trần Văn Duy
Bình luận về bài viết này