Đặc điểm ngôn từ thơ Lý Hạ

5 105 1
Đặc điểm ngôn từ thơ Lý Hạ

Đang tải... (xem toàn văn)

Thông tin tài liệu

Nội dung chính của bài viết là tìm hiểu nét đặc sắc của phong cách thơ Lý Hạ trên phương diện ngôn ngữ. Để hiểu rõ hơn, mời các bạn tham khảo chi tiết nội dung bài viết

38 ngôn ngữ & đời sống số 11 (193)-2011 Ngôn ngữ với văn chơng đặc điểm ngôn ngữ thơ lý hạ Nguyễn thị vân anh (Khoa Ngữ văn, Đại học Hải Phòng) Vi tuyờn ngụn ngn bỳt phi bự p khiếm khuyết cho tạo hóa” (i), Lý Hạ (790-816) khơi dòng chảy cho thi ca lãng mạn đời Đường Thơ ông xếp “đứng riêng cõi” phong cách vô độc đáo Người đời đặt cho ông biệt danh “Thi quỷ” xưng tụng thơ ông “Xương Cốc thể” Lý Hạ để lại 220 thơ, người đời sau sưu tầm tập hợp Lý Hạ tập Trong đó, nhiều câu thơ ông trở thành danh cú mà nhân ngàn đời truyền tụng, như: “Hùng kê thiên hạ bạch” (Gà trống cất tiếng gáy mà thiên hạ bừng sáng); “Thiên nhược hữu tình thiên diệc lão” (Trời mà có tình, trời phải già), v.v Đương thời, nhà thơ Đỗ Mục “Lý Trường Cát ca thi tự” nhận xét thơ Lý Hạ: “khói mây trướng gấm, khơng đủ để tả sắc thái; mặt nước mênh mang, chẳng đủ lột tình; vẻ xuân tươi tắn, đâu nói hết nét an hịa; nét khiết mùa thu, khơng tài sánh với phong thái; … vườn hoang điện phế, cỏ rậm đồi lũng, khơng đủ để nói nỗi niềm sầu hận; kình ngao, ngưu quỷ xà thần, khơng đủ để nói vẻ hoang đản, hư ảo "Tâm đắc với lời Đỗ Mục, chúng tơi mong muốn góp phần tìm hiểu nét đặc sắc phong cách thơ Lý Hạ phương diện ngôn ngữ qua viết Trước hết, có lẽ cần thiết phải giải thích quan niệm chúng tơi biệt danh “Quỷ thi” Lý Hạ Tên gọi nằm mối quan hệ đối sánh phong cách với “Thánh thi" Đỗ Phủ, "Tiên thi" Lý Bạch "Phật thi" Vương Duy Bốn nhà thơ lớn đại diện cho bốn phong cách thơ tiêu biểu tề tựu giai đoạn biến chuyển từ Thịnh Đường sang Trung Vãn Đường "Quỷ" không ma! "Quỷ" trước hết lạ lùng, dị biệt, thoát li khỏi cõi phàm trần Đương thời, nhân gian truyền tụng nhiều giai thoại phi phàm Lý Hạ Ơng sinh gia đình dịng dõi tôn thất nhà Đường gia cảnh sa sút, bần hàn Bản thân ơng khơng ứng thí phạm huý Càng ngày, thể chất ông yếu đuối mắc bệnh hiểm nghèo Sáng sáng ông cưỡi lừa đi, lưng đeo túi gấm cũ rách, gặp tứ thơ lại viết bỏ vào túi, tối chép lại Chính mẹ Lí Hạ nhìn thấy yểu mệnh trai, bà lên: "thằng bé đến thổ hết tim thôi" (ii) Ơng vắt kiệt linh hồn thành vần thơ lúc chết Người ta cho 27 năm ông nơi trần nhờ gửi Ơng chốn “rất vui, khơng có nỗi khổ” để viết kí lầu “Bạch Ngọc” cho Thượng Đế ( iii ) Người đời bắt đầu gọi Lý Hạ biệt danh “Quỷ thi” Những nỗi dằn vặt thể xác tinh thần gây nên niềm bi phẫn lớn tư tưởng Lý Hạ Cái tâm thái sầu bi chàng trai trẻ hai mươi xuân xanh từ đầu tạo nên “bệnh thái” vần thơ Đó tiếng lịng đau đớn: “Ngã đương nhị thập bất đắc ý, Nhất tâm sầu tạ khô lan” (Ta hai mươi tuổi bất đắc ý, lịng sầu tạ tựa lan khơ héo); “Trường An hữu nam nhi, Nhị thập tâm dĩ hủ” (Trường An có kẻ nam nhi, hai mươi tuổi lịng ruỗng nát.) v.v Lý Hạ hoảng sợ nhỏ bé, tạm bợ đời thơ ơng “nơi lẩn trốn cho tâm hồn” ơng Ơng tự cảm thấy mỡnh khụng phi Số 11 (193)-2011 ngôn ngữ & đời sèng người cõi nhân gian mà lạc vào cõi mê, nơi vô định: “Ngã hữu mê hồn chiêu bất đắc" (Ta có linh hồn mê lạc, khơng gọi nữa) Cõi mê ngập tràn hình ảnh quỷ dị Người đời cho hồn ông lạc vào giới “quỷ" Trường từ vựng ma quỷ, chết chóc "Quỷ dị" từ đời Lý Hạ vào thơ ông Nó trở thành "quỷ khí", thành nỗi ám ảnh ma qi, ghê rợn, chết chóc “Quỷ khí” khơng phải chất tự nhiên, mà hình ảnh có thông qua cảm nhận người Thế giới thẩm mĩ Lý Hạ bi oán, sầu muộn Vì thơ Lý Hạ đặc biệt từ, ngữ thuộc ngôn ngữ đời thường, ngôn ngữ tự nhiên “Thi trung hữu quỷ” cách nhận xét khái quát thường gặp đề cập đến thơ Lý Hạ Quả thật, thơ ông, từ, ngữ thuộc trường nghĩa: giới ma quỷ, cõi âm, hồn ma, chết chóc, nước mắt, máu, v.v có tần suất hoạt động cao Chúng thống kê 220 thơ Lý Hạ, kết cho thấy: từ đề 啼 (khóc than) xuất 30 lần, lệ 泪 (nước mắt): 28 lần, tử 死 (chết): 27 lần, huyết 血 (máu): 23 lần, hồn 魂 (linh hồn): 19 lần, quỷ 鬼 (ma): 11 lần, v.v Ngoài ra, từ ngữ phản ánh nhìn bi quan, như: sầu 愁, hận 恨, v.v.; loài ác thú, quái đản, như: giao 虺 (thuồng luồng), long 龍 (rồng), hủy 蛟 (rắn hổ mang), v.v xuất dày đặc Nhà thơ thường đứng bên lề chết mà nhìn đời, đem mắt ma quỷ mà nhìn nhân gian Khiến cho ơng thấy quanh ngập tràn màu máu đỏ Bài Cảm phúng, ông viết: “Hiểu vân giai huyết sắc” (Trên mây sớm mai tồn màu máu) Với ơng, sống người tồn Nhưng tồn chết chóc ghê rợn, linh hồn xác thịt người thể bị tuyết sương, ma quỷ gặm nhấm: “Hùng huỷ thực nhân hồn, 39 Tuyết sương đoạn nhân cốt” (Rắn đực nuốt hồn người, Tuyết sương bào đứt xương người) (Công vô xuất môn) Ngôn ngữ thơ Lý Hạ làm thành giới nỗi niềm thê lương, quỷ hồn, chết chóc, tiếng khóc, âm khí rùng rùng Trường từ vựng thần kì siêu tưởng Bút lực Lý Hạ thể việc dùng từ ngữ khắc họa hàng loạt hình tượng thơ khơng có cõi phàm Một giới câu chuyện thần thoại, giai thoại, ngụ ngôn, cổ tích Khảo sát thơ Lý Hạ, chúng tơi nhận thấy đa phần điển ngữ ông sử dụng có nguồn gốc từ sách Nam hoa kinh (Trang Tử), Sơn hải kinh (Hoài Nam Tử - Lưu An đời Hán), Lã thị xuân thu (Lã Bất Vi đời Tần), Thập châu kí (Đơng Phương Sóc đời Hán), Sưu thần kí (Can Bảo đời Tấn), Thuật dị kí (Nhiệm Phỏng đời Lương), v.v Tất điển ngữ ấy, làm thành giới thần thoại, giới truyền thuyết thơ ơng Có điển ngữ ơng dùng nhiều lần thơ khác Tuy nhiên, ông thường không lặp lại vỏ ngôn từ ấy, mà ln tìm cách làm điển ngữ Trong sách Nam hoa kinh, Trang Tử có kể câu chuyện Trường Hoằng chết đất Thục, người ta chôn máu xuống đất, năm sau biến thành ngọc bích Điển Lý Hạ sử dụng hai lần: - Bài: Dương Sinh hoa tử thạch nghiên ca, ông viết: “Ám sái Trường Hoằng linh huyết ngân” (Dòng mực đen vết máu lạnh Trường Hoằng); - Bài Thu lai 秋來 (Thu đến) ông viết: “Hận huyết thiên niên thổ trung bích” (Máu hận ngàn năm hóa thành ngọc bích lòng đất) Đi kèm với điển ngữ giới sống động nhân vật thuộc giới thần thoại, truyền thuyết, như: Nữ Oa, Thần Ẩu, Ngô Chất, Hàn Thố, Giang Nga, Tố Nữ, Dao Cơ, Tương Phi, Tần Nga, Bạch Đế, Quỷ mẫu, v.v Tương tiến tửu 將進酒 thể tài ca vũ dâng rượu có từ đời Hán Cùng nhan đề thơ cổ nhạc phủ trên, nhà thơ lãng mạn Lớ 40 ngôn ngữ & đời sống Bch xa dừng lại việc: “phanh dương, tể ngưu thả vi lạc” (nấu dê, giết trâu vui), Lý Hạ vươn lên tầng mây mà tiêu dao: “phanh long, bào phượng, ngọc khấp” (nấu rồng, nướng phượng, khiến cho tảng mỡ trắng ngọc sôi lên nghe tiếng khóc) Rồi lấy xương rồng làm sáo, lấy da cá sấu làm trống, vui say ca hát, nhảy múa: “Xuy long địch, kích đà cổ, Hạo xỉ ca, tế yêu vũ” (thổi sáo làm xương loài rồng, vỗ trống làm da cá sấu, vũ nữ với hàm trắng hát ca, eo thon nhảy múa) Xây dựng thành cơng hình tượng từ chất liệu đời sống hồn tồn chẳng có xa lạ Nhưng xây dựng hình tượng từ giới siêu thực để biểu đạt thực Lý Hạ số nhà thơ tiên phong Có thể lấy Lão phu thái ngọc ca (Bài ca ông lão mò ngọc trai) làm minh chứng Viết sống lao khổ người lao động đề tài mà Lí Hạ thường chấp bút, lại đề tài lớn thơ Đường Chúng cho nên đặt thơ vào hệ quy chiếu với tác phẩm nhà thơ khác thời để thấy khác biệt việc sử dụng chất liệu ngơn ngữ để xây dựng hình tượng Cùng viết ơng lão hàn khốn khó, Bạch Cư Dị có Mại thán ơng (ơng già bán than), Vi Ứng Vật có Thái ngọc hành (bài hành người mò ngọc) Bạch Cư Dị Vi Ứng Vật dùng lối tự sự, thuật kể thông qua chi tiết đời ông lão, người lao động vất vả bị lực cường hào hiếp, chiếm đoạt công sức Từ thực trần trụi, tác giả tố cáo bất công xã hội, tố cáo lực thống trị Còn Lý Hạ lại viết: “Đỗ quyên huyết lão phu lệ” (Nước mắt ông già tuôn đỗ quyên thổ máu), hay: “Lão phu hàn, long vi sầu, Lam khê, thủy khí, vơ bạch.” (Ơng lão đói rét [lặn xuống đáy nước], làm cho giao long cảm thương sầu não, Suối lam, khí nước, tưởng vẩn đục lại được) Những cụm từ: đỗ quyên thổ máu, giao long sầu não phản ánh giới sè 11 (193)-2011 siêu thực Chúng có ý nghĩa cường điệu hóa nỗi cực, lầm than ông lão, hay người dân đen khốn khổ Đồng thời hình ảnh dịng suối lam (“lam khê”, “khê thủy”) lại có ý nghĩa phúng thích sâu sắc Đó hình ảnh tượng trưng cho bọn cường hào ác bá Sáng tạo nhiều từ ngữ “quái kiệt” Thần đồng thơ ca Lý Hạ sớm ý thức rõ trọng trách người cầm bút việc dùng từ ngữ Cùng quan niệm với Đỗ Phủ: "Ngữ bất kinh nhân tử bất hưu" (lời mà không kinh động lịng người có chết khơng ngi), Lí Hạ khơng lịng với lối diễn đạt cũ kĩ, từ ngữ dùng nhiều đến mức sờn rách Để cho câu, chữ viết phải “mài vào thinh khơng” ngơn từ nhân gian thật nghèo nàn bất lực Lý Hạ tìm đến việc sáng tạo nhiều cách diễn đạt mới, cách biểu khác lạ Đây dụng cơng kì diệu mà Lý Hạ để lại cho đời Ngay vật đỗi quen thuộc đời sống người khốc lên vẻ tân kì tên gọi mới, ví dụ: mặt trời ơng gọi là: "hồng kính" (gương hồng), "bạch cảnh" (cảnh sáng); trăng "ngọc câu" (móc câu ngọc); mây: “bích hoa” (hoa xanh); kiếm: "ngọc long" (con rồng ngọc), "ngọc phong" (mũi nhọn ngọc), quế: "cổ hương" (quê cũ), v.v Lý Hạ cố gắng thoát khỏi dung tục, tầm thường Ơng ln hướng đến mĩ lệ, nhã lối nói ví von Cũng mà việc giải thơ Lý Hạ khơng từ, ngữ thách đố hóc hiểm hậu sinh Đời Thanh, “Lý Trường Cát ca thi vựng giải” (Giải nghĩa thơ ca Lý Hạ) Vương Kì coi cẩm nang để nhà nghiên cứu đời sau tìm hiểu giải nghĩa thơ ơng Nhà nghiên cứu Chu Tử nói: “Thơ Lý Hạ dùng chữ hiểm quái.” Sách Thông nhã viết: “Lý Hạ thích dùng chữ hiểm quái để tạo nên sức mnh th Số 11 (193)-2011 ngôn ngữ & đời sèng Chẳng hạn, Truy Hòa hà đồng tước kĩ có câu: “Thạch mã ngoạ tân yên” (ngựa đá nằm khói mới) Trong "tân yên" 新烟 (làn khói mới) tác giả Tồn Đường thi giải cỏ non Hoặc câu: “Bạch cảnh quy tây sơn, Bích hoa thượng thiều thiều” (Cổ du du hành) ơng chọn cách nói "bạch cảnh” 白景 núi tây để cảnh hồng hơn, dùng “bích hoa” 碧华 (hoa xanh) để mây bay đêm Lý Hạ thường khơng nhìn vạn vật mắt vơ cảm Ơng khơng miêu tả vạn vật cách đơn theo lối danh, như: nhật (mặt trời), vũ (mưa), mã (ngựa), huyết (máu), v.v Mỗi hình ảnh thơ Lý Hạ cảm nhận Từ nguyên danh gọi tên vật, tượng thơ Lý Hạ thường đính kèm từ biểu thị trạng thái hay cảm xúc Hay nói cách khác ơng thường đặt từ ghép song tiết để thay cho từ đơn Ví dụ: - lộ 露 (hạt sương) thơ ơng "khấp lộ" 泣 露 (hạt sương khóc), "tàn lộ" 殘 露 (sương tàn), "diệp lộ" 葉露 (sương lá), "cam lộ" 甘露 (sương ngọt), "phi lộ" 飛露 (sương bay), "thanh lộ" 清露 (sương trong), "bạc lộ" 薄露 (sương mỏng), "hàn lộ" 寒露 (sương lạnh), "tế lộ" 细露 (sương li ti), "quang lộ" 光露 (sương tỏa sáng), "hương lộ" 香露 (sương thơm), "sầu lộ" 愁露 (sương buồn), v.v - cốt 骨 (xương): "hận cốt", 病骨 (xương hận), "bệnh cốt" 病骨 (xương ốm), "sấu cốt" 瘦骨 (xương gầy), "tuấn cốt" 骏骨 (xương rắn chắc), "hương cốt"香骨 (xương thơm), v.v Ngay danh từ riêng ông thay đổi để tránh đơn điệu Chẳng hạn, ông 41 sáng tạo hàng loạt từ sông Ngân Hà (hoặc Thiên Hà): "Vân Phố" (vườn mây), "Ngân Phố" (vườn Ngân), "Biệt Phố" (vườn chia li), "Thiên Giang" (dịng sơng Trời), v.v Hay tên nhân vật Ngơ Cương theo truyền thuyết bị phạt giữ gốc quế cung trăng, ông đặt tên Ngô Chất, nàng Thường Nga, tiên nữ cung trăng ông gọi Tiên Vọng, v.v Về phong cách ngôn ngữ Lý Hạ, lời khen sau Đỗ Mục coi nhận định tổng quát: "(Lý Hạ)… hàng miêu duệ Li Tao, dù nghĩa lý khơng ngơn từ có chỗ Li Tao." [4,16] Ngơn ngữ thơ khơi kì diễm lệ Bấy nhiêu lời ngợi ca Đỗ Mục dẫn đầu viết tưởng đủ nói hết vẻ diễm lệ, khơi kì thơ Lý Hạ Xin ngẫu nhiên chọn Tẩu mã dẫn (bài ca vó ngựa) làm minh chứng Bài thơ có câu: “Ngã hữu từ hương kiếm, Ngọc phong kham tiệt vân” (Ta có kiếm đem theo lúc từ biệt q hương, Mũi ngọc cắt lìa vầng mây) Cái cách nói “từ hương kiếm” 辞鄉劍 (thanh gươm biệt ly) thật kì Cái lối ví von lại diễm lệ: “ngọc phong” 玉峰 (mũi gươm sáng ngọc) vút xé toạc chín tầng mây Các nhà thơ du hiệp thường viết kiếm biểu tượng khí phách Ở đây, Lý Hạ mượn ý Trang Tử: “(Gươm Thiên tử) tiến thẳng khơng ngăn nổi… mở cõi mây, đứt giềng đất” (iv) Bằng chữ “kham tiệt vân”, nhà thơ thể ý vị hào sảng, “dũng” trang hiệp khách li hương Ở Khổ trú đoản 苦昼短 (Nỗi khổ thời gian trôi nhanh), Lý Hạ nói ước mong thiên cổ người muốn níu bước chân thời gian, thời gian ngừng trôi, người trường tồn vĩnh cửu Ơng diễn đạt ý thơ thật khơi kì, cách ví thời gian "con rồng" hữu hình, hữu ảnh Ơng muốn làm tráng sĩ chặt chân rồng khơng cho chạy, 42 ng«n ngữ & đời sống x tht rng khụng cho nú lớn lên: “Ngô tương: trảm long túc, tước long nhục” (Ta muốn: chém chân rồng, xả thịt rồng.) để cho: “Lão giả bất tử, Thiếu giả bất khốc” (Người già khơng chết, trẻ khơng khóc) Nét mĩ lệ hình ảnh thơ Lý Hạ khơng kì vĩ mà cịn làm nên từ nét vẽ tao, u lệ Khi độc giả thấy tâm hồn nhuốm màu u tịch từ ngữ Thục quốc huyền 屬國 弦 (Đàn nước Thục): “Phong hương vãn hoa tĩnh” (hương thơm hàng phong phảng phất cảnh tĩnh mịch rừng hoa chiều tà); bị nỗi sầu bi cào xé tâm can: “Kinh thạch trụy viên ai, Trúc vân sầu bán lĩnh” (Những tảng đá lởm chởm sụt lở xuống làm bầy vượn cất tiếng hú bi ai, Mây rừng trúc lờ lững nỗi sầu bay lưng chừng núi) Lý Hạ ln tìm cách khỏi dung tục, đời thường Ơng tránh lối “trần ngơn”, tạo cho hình tượng thơ vẻ lung linh kì diệu Lục Du nói điều này: “(thơ Lý Hạ hội tụ) nét cẩm tú muôn nhà, huyền diệu ngũ sắc, thích mắt êm tai” Các nhà nghiên cứu sách Trung Quốc văn học sử đại cương nhận xét: “(Lý Hạ) tiếp thu ảnh hưởng Hàn Dũ: bỏ lối nói trần ngơn (trong thơ), không chịu câu thúc cách luật.” [8, 282] Nhà phê bình Nghiêm Vũ nói: "Thái Bạch tiên tài, Trường Cát quỷ tài" 太白仙才, 長吉鬼才 Lý Hạ làm thành đối cực với Lý Bạch trường phái thơ lãng mạn đời Đường Trái với âm hưởng dạt dào, hùng tráng, mĩ lệ "Tiên thi" Lý Bạch, "Quỷ thi" Lý Hạ mang vào thơ âm điệu sầu thương, bi tráng Chịu ảnh hưởng từ tranh thực suy vi thời đại, lại thêm dằn vặt công danh, tật bệnh, nỗi niềm bất đắc chí đâu cất cánh hạc vàng lên với tầng trời bao la Bởi thế, Quỷ thi Lý Hạ cách thoát li khác xuống cõi âm Hồn thơ Lý Hạ lạnh lẽo Đọc thơ ông, người đọc thấy rùng giới sè 11 (193)-2011 thơ ông giới quỷ hồn Thế nhưng, không cảm thấy ghê sợ, mà thấy lịng cuộn xốy chạm đến giới thâm sâu linh hồn Chú thích: (i) Năm lên bảy tuổi, Lý Hạ khiến Hàn Dũ 韩愈 phải thất kinh lời thơ tựa "tuyên ngôn nghệ thuật": “Điện tiền tác phú ma không, Bút bổ tạo hóa thiên vơ cơng.” (Trước nhà [ta] viết vần thơ, tiếng thơ mài vào thinh không, Ngọn bút [ta] bổ khuyết cho tạo hóa, [đến mức] trời cao chẳng có cơng lao) (ii) Lý Thương Ẩn, (Sđd): "thị nhi yếu đương thổ xuất tâm nãi dĩ nhĩ" 是兒要當嘔出心乃已耳 (iii) Lý Thương Ẩn, "Lí Trường Cát tiểu truyện": "Đế thành Bạch Ngọc lâu, lập chiêu quân vi kí Thiên thượng sai lạc, bất khổ dã" 帝成白玉樓,立召君為 記。天上差樂,不苦也 (Ngọc Hoàng xây xong lầu Bạch Ngọc, triệu ngài [Lý Hạ] viết kí Trên thiên giới vui, khơng có nỗi khổ) (iv) Trang Tử, “Thuyết kiếm”, Nam hoa kinh, tr 316 Tài liệu tham khảo Nguyễn Thị Vân Anh, Thế giới nghệ thuật thơ Lý Hạ (Luận văn tốt nghiệp đại học), 2009 Lý Thương Ẩn 李商隐, Lí Trường Cát tiểu truyện 李长吉小传 Phạm Thị Xuân Châu, “Ảnh hưởng thơ Lí Hạ Trung Quốc Việt Nam”, Tạp chí Hán Nơm, số 6-2009 Huỳnh Ngọc Chiến, Lý Hạ - Quỷ tài, quỷ thi, NXB Trẻ, 2001 Đặng Trung Long, Đường đại thi ca diễn biến, Nhạc Lộc thư xã xuất bản, Hồ Nam, 2001 Đỗ Mục, Lý Trường Cát thi ca tự, điện tử, www.zhgguwenxue.com.cn Lý Hạ toàn tập 李贺全集 (nguyên văn tiếng Hán): điện tử www.zhgguwenxue.com.cn Sở Nghiên cứu văn học (Trung Quốc), Lịch sử văn học Trung Quốc, NXB Văn hóa, H., 1998 (Ban Biên tập nhận ngày 17-10-2011) ... thẩm mĩ Lý Hạ bi ốn, sầu muộn Vì thơ Lý Hạ đặc biệt từ, ngữ thuộc ngôn ngữ đời thường, ngôn ngữ tự nhiên “Thi trung hữu quỷ” cách nhận xét khái quát thường gặp đề cập đến thơ Lý Hạ Quả thật, thơ. .. (Giải nghĩa thơ ca Lý Hạ) Vương Kì coi cẩm nang để nhà nghiên cứu đời sau tìm hiểu giải nghĩa thơ ông Nhà nghiên cứu Chu Tử nói: ? ?Thơ Lý Hạ dùng chữ hiểm quái.” Sách Thơng nhã viết: ? ?Lý Hạ thích... tượng thơ Lý Hạ thường đính kèm từ biểu thị trạng thái hay cảm xúc Hay nói cách khác ơng thường đặt từ ghép song tiết để thay cho từ đơn Ví dụ: - lộ 露 (hạt sương) thơ ông "khấp lộ" 泣 露 (hạt sương

Ngày đăng: 19/05/2021, 23:19

Từ khóa liên quan

Tài liệu cùng người dùng

Tài liệu liên quan